Còn nhiều vướng mắc

Theo quy hoạch năng lượng quốc gia và Quy hoạch Điện VIII, hiện tổng quy mô công suất 23 dự án được đầu tư xây dựng, đưa vào vận hành đến năm 2030 là 30.424MW. Trong đó, nhà máy điện khí sử dụng khí khai thác trong nước là 7.900MW (10 dự án); nhà máy điện khí sử dụng LNG đạt khoảng 22.400MW (13 dự án).

Định chế tài chính để tập đoàn kinh tế Nhà nước phát triển năng lượng  第1张 Kho cảng LNG Thị Vải của PVGAS.

Về tình hình đầu tư xây dựng đến tháng 6/2024, Nhà máy nhiệt điện Ô Môn I có công suất 660MW đang sử dụng nhiên liệu dầu đã được đưa vào vận hành và sau đó sẽ sử dụng khí Lô B; Dự án Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4, công suất 1.624MW, tiến độ đạt 85% sử dụng LNG từ Kho cảng LNG Thị Vải đang được xây dựng.

Ngoài ra, còn có 18 dự án đang trong quá đầu tư xây dựng, trong đó có 9 dự án sử dụng khí khai thác trong nước và 3 dự án đang lựa chọn nhà đầu tư với tổng công suất 4.500MW.

Hiện mới có 1 dự án điện gió ngoài khơi được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ khảo sát và nghiên cứu tiền khả thi giữa Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam cùng đối tác Singapore.

TS. Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam nhấn mạnh việc điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện chưa có hướng dẫn trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt đối với các dự án đầu tư. Cơ chế tài chính và thu xếp vốn gặp vướng mắc do vượt quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng 15% vốn điều lệ khi cho vay theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng, do vốn cần thu xếp huy động cho các dự án điện lớn.

Đáng chú ý, hầu hết các dự án điện không thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ. Hiện chưa đủ cơ sở pháp lý thay thế bảo lãnh Chính phủ để có thể vay vốn/thu xếp vốn cho các dự án, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV).

Ngoài ra, chính sách ưu đãi cho đầu tư phát triển các dự án điện, dự án sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới theo Luật Điện lực chậm được ban hành.

Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, khung pháp lý để hoàn thành, đẩy nhanh tiến độ đàm phán và ký kết thỏa thuận về pháp lý – kinh tế - thương mại giữa các chủ thể trong chuỗi dự án liên quan đến khí LNG vẫn chưa hoàn thiện...

Định chế tài chính để tập đoàn kinh tế Nhà nước phát triển năng lượng  第2张 Chưa có cơ chế bảo lãnh bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ và nghĩa vụ thanh toán toán quốc tế về nhập khẩu LNG. 

Việt Nam hiện cũng chưa có quy định bên mua điện thực hiện bao tiêu sản lượng điện đối với điện khí LNG và cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện khí LNG.

Luật Giá hiện hành chưa quy định cước phí nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa LNG thuộc danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá, nên cước phí này sẽ được các bên liên quan đàm phán và thống nhất, dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán khí LNG và điện tương ứng.

Về việc đầu tư phát triển các dự án điện gió ngoài khơi, việc chấp thuận chủ trương và lựa chọn nhà đầu tư trong lĩnh vực điện gió còn nhiều vướng mắc và chưa thống nhất giữa các văn bản quản lý pháp luật hiện hành...

Giải pháp tháo gỡ

Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi phát triển đạt kỳ vọng, TS. Nguyễn Quốc Thập đưa ra 5 nhóm giải pháp.

Định chế tài chính để tập đoàn kinh tế Nhà nước phát triển năng lượng  第3张 Chưa có hướng dẫn quá trình khảo sát, thăm dò, đo đạc trên biển và giao khu vực biển để đầu tư dự án điện gió ngoài khơi. Ảnh: NTG.

Thứ nhất, nhóm giải pháp về khung pháp lý và cơ chế chính sách cần thiết sửa đổi và bổ sung một cách đồng bộ các Bộ luật.

Gồm: Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường (kiểm đếm phát thải khí CO2; quy định, điều kiện quy đổi khí phát thải); Luật Thuế (cơ chế thuế phí đối với đầu tư, vận hành các dự án điện khí LNG, các dự án/công trình điện gió ngoài khơi; thuế xuất khẩu điện; tiêu chuẩn phát thải và khung thuế phí mua bán khí phát thải CO2); Luật Tài nguyên môi trường Biển và Hải đảo; Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đất đai...

Thứ hai, nghiên cứu phát triển thị trường điện theo sát với mục tiêu Quy hoạch điện VIII cần xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có nhu cầu sử dụng điện đủ lớn;

Giải pháp thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp, cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG, điện gió ngoài khơi;

Đa dạng hóa việc đầu tư hạ tầng truyền tải điện tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là truyền tải cho các nhà máy điện khí LNG, điện gió ngoài khơi.

Thứ ba, nhóm giải pháp về cơ chế quản lý và thực thi đề cập đến sửa đổi điều lệ tổ chức hoạt động và quy chế tài chính của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng như Petrovietnam, EVN, TKV.

Trong đó, chú trọng quy định về điều kiện thu xếp vốn đối với các dự án không được cấp bảo lãnh Chính phủ, cho phép các tập đoàn được thế chấp tài sản với các chủ thể trong hoạt động mua bán khí - LNG, mua bán điện và các hộ tiêu thụ điện.

Do đó, nâng cấp nghị định về điều lệ tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính của các Tập đoàn Petrovietnam, EVN, TKV tương đương với bộ Luật do Quốc hội ban hành nhằm bảo đảm đủ hành lang pháp lý.

Thứ tư, nhóm giải pháp tham vấn và học hỏi kinh nghiệm. Nên tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế sâu rộng, học hỏi về mô hình quản trị đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, trong đó có lĩnh vực năng điện khí LNG, điện gió ngoài khơi.

Thứ năm, nhóm giải pháp giúp thay đổi nhận thức và tư duy về điện khí LNG và điện gió ngoài khơi. Điện khí LNG cần được hấp thụ hay tiêu thụ bởi các khu công nghiệp hay các nhà máy chế biến và nói rộng hơn là nền kinh tế.

Giá điện khí LNG đề xuất tính toán theo cơ chế thị trường, do chi phí nhập khẩu LNG chiếm phần lớn trong giá thành sản xuất điện. Các cam kết dài hạn về mua bán khí LNG về hợp đồng mua bán điện với khách hàng tiêu thụ và mở rộng đối tượng được mua bán điện trực tiếp.

Thứ sáu, nhóm giải pháp mang tính đột phá, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ báo cáo Ủy Ban Thường vụ Quốc hội xem xét để ban hành Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội, gồm các điều kiện cần thiết và cho phép triển khai song song với quá trình hoàn thiện các Bộ Luật theo tinh thần của Nghị quyết chuyên đề đó.

 

Theo Quy hoạch Điện VIII, từ nay đến năm 2030, tổng công suất bổ sung từ các dự án điện khí (30.424MW) và điện gió ngoài khơi (6.000MW) chiếm khoảng 50% tổng công suất cần bổ sung. Tại cuộc họp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi trong Quy hoạch điện VIII đầu năm 2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã yêu cầu xem xét, rà soát toàn bộ trình tự thủ tục đầu tư các dự án trong đó có những cam kết dài hạn mang tính nguyên tắc của Chính phủ đối với nhà đầu tư.